Cải bí quyết ở Xiêm và Việt Nam cuối TK 19, đầu TK 20: Những nguyên do thành bại
Cải bí quyết ở Xiêm và Việt Nam cuối TK 19, đầu TK 20: Những nguyên do thành bại

Tác giả: Phạm Quang Minh
I. Đặt vấn đề
Cải phương pháp là 1 nhu cầu ko thể thiếu được trong lịch sử của 1 dân tộc, nhằm đưa giang san phát triển, thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, lệ thuộc, thậm chí vong quốc, nô lệ.
Cách đây hơn hai thế kỷ, trước nguy cơ bành trướng và xâm lăng của chủ nghĩa tư bản thực dân châu Âu nhằm kiếm tìm nguyên liệu, cần lao và thị trường tiêu thụ, những nước châu Á đã mang các phản ứng vô cùng khác nhau. Trong khi đông đảo các nước, trong đó sở hữu Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của giai cấp thống trị và các lực lượng yêu nước đã tiến hành trận chiến tranh vũ trang nhằm bảo vệ chủ quyền dân tộc và đều đã bị thất bại, trở thành các thuộc địa hoặc phụ thuộc, thì 1 số nước, mà đại diện là Nhật Bản và Thái Lan đã thực hành thành công công cuộc cải cách, giúp tổ quốc họ, không các phát triển, mà còn bảo vệ được chủ quyền và độc lập. Một câu hỏi được đặt ra là tại sao trong các điều kiện, bối cảnh, không gian, thời gian và thách thức tương tự, vương quốc Xiêm đã thực hiện thành công tư tưởng cải cách, trong lúc các tư tưởng cải cách ở Việt Nam lại ko được hiện thực hoá?
Mục đích chính của bài viết này là so sánh trào lưu cải bí quyết ở Xiêm và Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX nhằm mua ra các duyên do dẫn tới sự thành công của công cuộc cải bí quyết ở Xiêm và những lý do khiến cho các yêu cầu cải bí quyết ở Việt Nam không được thực hiện. Vì thế, nghiên cứu sẽ không đi sâu vào việc chọn hiểu và biểu đạt về nội dung, tiến trình cũng như các kết quả của những xu hướng cải bí quyết đấy ở cả Xiêm và Việt Nam.
II. Cơ sở hình thành trào lưu cải bí quyết Xiêm và Việt Nam
a. Sự hình thành triều đại Chakri ở Xiêm và triều Nguyễn ở Việt Nam
Lịch sử hình thành quốc gia trung ương ở Xiêm cuối thế kỷ XVIII (triều đại Chakri 1782) và ở Việt Nam đầu thế kỷ XIX (triều Nguyễn 1802) là một công đoạn lịch sử lâu dài nhằm chống lại những thần thế xâm lăng từ bên ko kể và những thế lực chia rẽ bên trong.
Vương quốc Thái cốt tử đầu tiên – Sukhothai được thành lập vào khoảng năm 1219. Nhưng nền tảng chính trị và văn hoá của Sukhothai được những vị vua nổi tiếng từ Ram Khamhaeng (1275-1318) đến Loe Thai, thiết lập vào khoảng từ cuối thế kỷ XIII tới giữa thế kỷ XIV. Đó là giai đoạn nhằm xác lập vị thế của người Thái, nhằm chống lại những đế chế Ấn hoá ở Đông Nam Á lục địa, đặc thù là những đế chế Angkor của người Khmer. Sau lúc Ram Khamhaeng qua đời, vương quốc Sukhothai suy yếu, nhường nhịn chỗ cho sự có mặt trên thị trường của vương quốc Ayudhya vào năm 1350 [1] . Sau lúc vương triều Ayudhya bị quân Miến Điện [nay là Myamar] xâm chiếm và tàn phá vào năm 1767, Taksin, một người sở hữu xuất phát Trung Hoa [2] , bằng hào kiệt quân sự và uy tín của mình, đã lãnh đạo phong trào đánh đuổi quân Miến, giành lại chính quyền và lên ngôi vua vào tháng 12/1767 [3] . Tuy nhiên, triều đại của Taksin tồn tại không lâu. Cuộc khởi nghĩa tháng 3/1782 đã đưa Chao Phya Chakri lên ngôi vua, lấy tên hiệu là Ramathipbodi (Rama), mở đầu 1 triều đại mới của vua Rama I vào tháng 4/1782. Các ông vua tiếp nối theo từ Rama I tới Rama V (Chulalongkorn) đã tiến hành các cuộc cải bí quyết cách tân đất nước, giúp Thái Lan thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Nhìn chung trong thời gian trị vì của Rama I đến Rama V, tình hình chính trị ở Xiêm hơi ổn định chủ yếu vì mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà vua và từng lớp quý tộc. Tầng lớp quý tộc Xiêm là những yếu tố sở hữu tính tiếp diễn trong lịch sử Xiêm. Các gia đình quý tộc này thường mang đại diện bảy đời trong các vị trí của những bộ. Họ bảo vệ nhà vua trên ngai rồng vàng và nhà vua kiểm soát quyền lực bằng cách thăng bằng thế lực giữa những gia đình. Trong công đoạn lớn mạnh của mình, các vương triều Thái thường hấp thu mang tìm lọc và áp dụng một phương pháp từ từ, uyển chuyển các khía cạnh bên ngoại trừ nhằm chuyên dụng cho cho hệ thống chính trị của mình.
Khác mang Xiêm, lịch sử hình thành triều Nguyễn trải qua một giai đoạn lịch sử cam go và phức tạp hơn vô cùng nhiều. Sự khác biệt căn bản ấy là Việt Nam từ lúc giành được độc lập vào năm 939 sau một nghìn năm Bắc thuộc phải chiến đấu mang các cuộc xâm lăng liên tiếp của những triều đại Trung Quốc. Đó là âm mưu thôn tính Việt Nam của nhà Tống (1075-1076), nhà Nguyên-Mông (ba lần vào những năm 1258, 1284-1285 và 1287-1288), nhà Minh (1407-1427) và nhà Thanh (1789). Các triều đại Trung Quốc, mặc dầu là mối doạ dọa, nhưng lại sở hữu tác động sâu sắc trong những vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội Việt Nam. Sau khi giành độc lập, những triều đại Việt Nam đã xây dựng hệ thống thống trị kiểu Trung Quốc. Năm 1075, nhà Lý lập Quốc tử giám, mở đầu chế độ khoa cử kéo dài cho đến tận năm 1914-1917. Nền tảng tư tưởng cho thể chế chính trị lúc đầu là Phật giáo (thời Lý-Trần 1010-1400), đã được thay thế bởi Nho giáo từ thời nhà Lê (1427).
Ngoài các áp lực mang tính chất ngoại sinh, các quốc gia phong kiến của Việt Nam, mà đỉnh cao là triều Nguyễn, đều bắt buộc trải qua các cuộc đấu tranh nội bộ phức tạp nhằm giành lấy và củng cố quyền lực trước những thần thế đối nghịch trong nước. Những cuộc chuyển giao quyền lực giữa các triều đại thường kèm theo những cuộc giao tranh, trả thù, tàn sát đẫm máu. Khác mang các triều đại phong kiến trước đó như Đinh, Lý, Trần, Lê, triều Nguyễn không có được tính chính thống cho quyền lực và sự cai trị của mình. Khắp nơi, nhất là ở phía bắc, nhà Nguyễn gặp phải sự chống cự của dân chúng nhằm ủng hộ và khôi phục nhà Lê. Chính sách khắc nghiệt của nhà Nguyễn duyệt bộ máy quan lại sẵn sàng đàn áp bất cứ sự chống đối nào, dù là nhỏ nhất, đã dẫn đến sự bất ổn về mặt chính trị của đất nước. Tính ra, trong giai đoạn này với tới 234 cuộc khởi nghĩa của các tầng lớp. Đáng kể nhất là cuộc bạo loạn của Tạ Văn Phụng (Lê Duy Minh) vào năm 1861, mạo xưng nhà Lê đòi lại ngôi vua, gây ra tình trạng rối ren cho đất nước.
b. Cơ cấu kinh tế
Vương triều Chakri được thiết lập vào năm 1782, có vị trí địa lý siêu thuận lợi, thông ra biển bằng một nhánh của sông Chao Phraya. Kinh đô Bangkok của vương triều là 1 tỉnh thành quốc tế có hoạt động thương mại nhộn nhịp và cởi mở. Các doanh nhân Trung Quốc, Trung Đông và đa dạng vùng khác đã tới đây buôn bán. Các nhà vua Chakri vì thế thường nghĩ suy với tầm nhìn quốc tế. [4] Với việc mở cửa nền kinh tế vào năm 1855, Bangkok đã trở nên trọng điểm kinh doanh của khu vực:
“Thật khó với thể tìm được bến cảng nào rộng lớn, được bảo vệ chắc chắn, có khả năng cho phép hàng nghìn tàu cập bến.” [5]
Sự phát triển của những khía cạnh bên ngoài như thị trường đường thế giới và loại người Hoa nhập cư ngày một tăng đã làm cho cho cần lao khiến cho thuê, dịch vụ bán sỉ và bán lẻ lớn mạnh 1 phương pháp tự nhiên và dễ dàng [6] . Trong thời gian từ 1882 đến 1910 đã với gần 1 triệu người Trung Quốc tới Xiêm sinh sống và khiến ăn, chiếm khoảng 10% tổng dân số Thái Lan. Trong suốt công đoạn lớn mạnh của mình, chính quyền trung ương Xiêm trước sau như một thực hành chính sách bảo hộ cho các hoạt động marketing của Hoa Kiều. Để đổi lại Hoa kiều nên chia lợi tức từ việc marketing kinh doanh cho tầng lớp quan lại Xiêm. Đó là mối quan hệ “có đi sở hữu lại”, cùng sinh, không thể thiếu được giữa Hoa kiều và giai cấp thống trị Xiêm. Những cải bí quyết kinh tế đã tạo đà cho công đoạn cải phương pháp chính trị. Năm 1874, khi bắt đầu xoá bỏ chế độ nô lệ, Thái Lan đã ứng dụng giải pháp miễn trừ thuế nông nghiệp và giảm tỷ lệ thuế nông nghiệp, tạo điều kiện cho việc phá hoang đất mới và ban hành các quy định quản lý ruộng rẫy tiên tiến vào đầu thế kỷ XX. Người nông dân không được khuyến khích mang rộng rãi đất đai. Ngay cả người trong tôn thất cũng chỉ được tối đa 10 vạn rai [1 rai = 1.600m2].
Hoàn toàn trái lại có bức tranh kinh tế của Xiêm, nhà Nguyễn từ lúc lên cầm quyền ở Việt Nam đã triệt để thi hành chính sách “trọng nông, ức thương”. Các giải pháp khuyến nông như khai hoang, khiến cho thuỷ lợi đã giúp nền nông nghiệp phục hồi và lớn mạnh nhiều hơn trước. Tổng dung tích đất nông nghiệp đã tăng từ 3 triệu dòng vào năm 1820 lên 4,2 triệu dòng năm 1847 [7] . Nhưng nền kinh tế Việt Nam dưới triều Nguyễn cốt tử vẫn là nền kinh tế tự cung, tự cấp, lạc hậu, kém vững mạnh 1 phương pháp trầm trọng. Cả trong nội thương lẫn ngoại thương, nhà Nguyễn thực hiện chủ trương độc quyền một phương pháp chặt chẽ. Việc buôn bán, vận chuyển gạo, muối – hai mặt hàng được coi là vô cùng quan yếu – do nhà nước độc quyền quản lý. Ai vi phạm sẽ bị nghiêm trị [8] . Chính sách này trên thực tế đã kìm hãm lực lượng phân phối phát triển. Về ngoại thương, nhà Nguyễn cũng áp đặt chế độ độc quyền, tránh kinh doanh với nước ngoài, nếu với thì cũng gặp đa dạng thủ tục phiền hà, chịu thuế cao và tệ tham nhũng của giới quan lại [9] . Sản xuất tiểu tay chân nghiệp ko đóng vai trò đáng nói nào trong nền kinh tế, hầu như ko với sự tăng trưởng so sở hữu công đoạn trước.
c. Cơ cấu xã hội
Thái Lan là một xã hội có tính chất mở, ko chặt chẽ. Khác sở hữu những nước Đông Nam Á khác, gia đình của người Thái ko đóng vai trò gắn kết các thành viên để tạo thành những tổ chức rộng to hơn, mà hoạt động tương đối độc lập. Do điều kiện tự dưng khá thuận lợi, dễ dàng di chuyển và kiếm sống, nên những gia đình của người Thái ko phải nên tập kết mưu sinh theo huyết hệ hoặc địa lý. Dưới triều đại Chakri, nhà vua là chủ sở hữu, đa số người đều được quyền canh tác, ko hình thành quan hệ có ruộng rẫy kiểu phong kiến. Mặc dù có những thành phần khác nhau, nhưng có đất đai ko có thuộc tính tuyệt đối, nên ko sở hữu quan hệ lệ thuộc về nhân phương pháp giữa địa chủ và tá điền như không thấy dưới chế độ phong kiến.
Ngược lại hoàn toàn mang xã hội Xiêm thế kỷ XIX, Gia Long sau lúc lên ngôi năm 1802, đã lấy Nho giáo làm nền móng tư tưởng và mô hình quốc gia Trung hoa làm khuôn dòng xây dựng xã hội [10] . Các quan niệm Nho giáo trên thực tiễn đã không tạo ra được sự ổn định và phát triển, mà trái lại chỉ kìm hãm, làm cho cho sơn hà bất ổn và ko có khả năng tập hợp lực lượng, mỗi khi có sự khủng hoảng hoặc doạ dọa của nước ngoài [11] . Trong xã hội Nho giáo đó cơ cấu xã hội được hình thành theo trang bị bậc nghiêm ngặt, lần lượt từ cao xuống rẻ là sĩ, nông, công, thương [12] . Tuy nhiên, khác sở hữu Xiêm, đại phòng ban từng lớp này do chỉ theo học đạo Nho, bị buộc ràng bởi hệ tư tưởng Nho giáo và quan hệ vua tôi, bắt buộc tiện dụng của họ gắn ngay tắp lự có lợi ích của triều đình và cực kỳ bảo thủ. Tầng lớp này, dù rằng mang học thức, quyền lực và địa vị kinh tế, nhưng ko đóng vai trò động lực ảnh hưởng xã hội tiến bộ, phát triển.
Khác biệt hoàn toàn có tầng lớp nông dân tiểu nông ở Xiêm mang sự tự do tương đối về địa vị kinh tế và xã hội, những người nông dân Việt Nam vừa bị trói buộc bởi giáo lý Nho giáo hà khắc, vừa bị kiểm soát bởi những phong tục tập quán của các cộng đồng nơi họ trú ngụ được ghi chép trong những bộ luật của làng (hương ước). Bộ máy hành chính quan liêu chuyên quyền cùng với thiết chế làng xã là nguyên cớ căn bản khiến cho cho xã hội Việt Nam trở nên lạc hậu và trì trệ.
Nói tóm lại, xét từ góc độ xã hội, Việt Nam thế kỷ XIX dưới thời nhà Nguyễn biểu hiện sự bảo thủ và thụ động. Từ tầng lớp quan lại thống trị, tới từng lớp bị trị, đều bị trói buộc bởi những tư tưởng lỗi thời. Với một nền tảng kinh tế và một hệ tư tưởng như thế, xã hội Việt Nam ko thể tạo ra được 1 lực lượng xã hội đủ mạnh về chính trị và trình độ, mang khả năng tập hiệp lực lượng, tạo ra sự đổi thay mang tính quyết định và cơ bản.
d. Cơ sở văn hoá giáo dục
Đặc điểm vượt trội của nền giáo dục Thái thời kỳ nguyên sơ là mối quan hệ hữu cơ có văn hoá Thái và sở hữu tiến trình lịch sử của vương quốc Xiêm. Do đó, có thể nói rằng cấu trúc và nội dung của nền giáo dục Thái Lan đã phát huy được các yếu tố truyền thống nội tại, trong lúc vẫn tiếp thu các thành quả của công nghệ và nghệ thuật bên ngoài.
Từ thời Ram Khamkaeng, đạo Phật đã trở thành động lực chính yếu cho sự vững mạnh của xã hội: “Các chùa Phật giáo trở nên những trọng tâm học thuật và văn hoá và nghệ thuật khiến chủ các vấn đề – bhikkhus [Tì kheo] – được giảng dạy cho mọi hầu hết người từ đô thị đến nông thôn” [13] .
Sự trị vì của Rama III (1824-1851) là sự tiếp diễn của quá trình xây dựng đã được bắt đầu bởi Rama I. Nhưng cũng là thời điểm người phương Tây có liên quan mạnh mẽ hơn ở Thái Lan. Đây là giai đoạn đánh dấu sự nở rộ của văn hoá truyền thống Thái đồng thời biến đổi những yếu tố truyền thống bằng việc kết nạp những khía cạnh phương Tây. Nhà vua Mongkut [Rama IV] đã có những cuộc đàm đạo trang nghiêm về những giá trị của các tôn giáo khác có các nhà truyền đạo Tin lành và Cơ đốc giáo. Vua Mongkut đề cập thông thuộc tiếng Anh, không xa lạ với kỹ thuật phương Tây đặc trưng là thiên văn và vật lý. Được các nhà truyền giáo giảng dạy tiếng Anh và kiến thức công nghệ mới, vua Mongkut đã với 1 phong độ tự tin, loại nhìn phê phán đối có văn hoá bản địa. Theo ông, đạo Phật không chỉ là truyền thống của một dân tộc mà còn là 1 tôn giáo với tính phổ cập, sở hữu thể cạnh tranh mang Cơ đốc giáo.
Với tư tưởng Nho giáo làm cho nền tảng, hệ thống giáo dục và thi cử dưới triều Nguyễn được xây dựng có mục tiêu tập huấn đội ngũ quan lại chuyên dụng cho cho triều đình. Mẫu người mà nền giáo dục khoa cử Nho giáo đề cao không nên là 1 chuyên gia mà là 1 quan lại, sở hữu khả năng đáp ứng đề nghị tuyển dụng của nhà nước, gắn quyền lợi của mình với vương triều và tuyệt đối trung thành mang nhà vua. Vì thế, trong hệ thống giáo dục này, nghề chuyên môn không được khuyến khích đề cao. Nội dung giảng dạy cốt yếu là Tứ Thư và Ngũ Kinh, các tác phẩm kinh điển của Nho giáo Trung Quốc. Các tri thức dạy và học bởi vậy thường sở hữu tính phi thực tế, sáo mòn, rập khuôn. Sự bất cập của nền giáo dục Việt Nam trình bày trong nội dung giảng dạy (chỉ nhấn mạnh đạo lý thánh hiền, ko sử dụng rộng rãi mua hiểu thế giới khách quan, xa cách thực tê), trong mục đích giáo dục (đào tạo người chuyên dụng cho cho tiện dụng thống trị của nhà Nguyễn), trong tài liệu dùng cho cho dạy và học (ít về chủng cái và số lượng), trong các quy chế ngặt nghèo phi lý của việc học và thi (quy định chữ viết, kiêng huý) [14] .
Trong các bắt buộc của mình, những nhà cách tân Việt Nam từ Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ tới Đặng Huy Trứ đều chỉ ra sự bất cập, lỗi thời của nền giáo dục Việt Nam dưới thời Nguyễn và đề ra những giải pháp nhằm chấn chỉnh những yếu kém này. Khi bàn về tầm quan yếu của giáo dục, Nguyễn Trường Tộ nhấn mạnh “việc chấn chỉnh học thuật là dòng gốc lớn của quốc gia” [15] , Đặng Huy Trứ thì nhấn mạnh tầm quan trọng của các ngành công nghệ tự dưng mà nền giáo dục Việt Nam không bao giờ đề cập đến: “Thiên văn, toán học ta đều chưa biết hết buộc phải sao hiểu được cơ trời để sớm toan lo được cho dân… Trải qua việc mới biết tài học ta nông cạn. Văn chương với bao giờ chống nổi với gió bão” [16] . Mạnh mẽ và quyết liệt hơn, Nguyễn Trường Tộ đã phê phán lối học 1 đằng làm cho một nẻo “…lúc nhỏ thì học văn, từ, thơ, phú, to lên ra khiến cho thì lại luật, lịch, binh, hình”, hoặc lối học không thực tế: “… học và tiêu dùng những gì mà mắt ko trông thấy, chân ko đặt đến” [17] .
Nói tóm lại, từ góc độ giáo dục có thể thấy sự khác biệt vô cùng lớn giữa Việt Nam [và Xiêm]: một bên là nền giáo dục Nho giáo khuôn sáo, máy móc, hủ lậu và một bên là nền giáo dục Phật giáo kết hợp sở hữu Ấn Độ giáo cởi mở, dân chủ, thiết thực. Điều dị biệt vật dụng hai là khía cạnh kết hợp cải phương pháp giáo dục bắt buộc gắn ngay lập tức mang mở cửa, giao lưu, tiếp xúc với thế giới bên ngoài, sở hữu chuyên gia nước ngoài và cử người đi học ở nước ngoài. Nếu như Ở Xiêm, giai đoạn này được thực hành một phương pháp thường xuyên, liên tục với quy mô và tốc độ ngày càng cao thì ở Việt Nam, điều này diễn ra ở mức độ siêu hạn chế, hầu như không đáng kể.
III. Một số nhận xét về trào lưu cải bí quyết ở Xiêm và Việt Nam
a. Về tiến trình và lực lượng cải cách
Để thực hiện cải bí quyết thành công, các ông vua của triều đại Chakri đã chủ động thực hiện một chương trình cải cách từ từ, ưa thích có tình hình nội tại của đất nước và khu vực. Với tư phương pháp là kết quả của 1 công đoạn đổi mới kinh tế và chính trị kéo dài tới năm 1868, đời sống chính trị của Xiêm đã được cải thiện rõ rệt. Việc làm thứ nhất mở đầu cho công cuộc cải phương pháp của Chulalongkorn là vào năm 1873, lúc ông tuyên bố bãi bỏ tục quỳ lạy vua, 1 biểu tượng thần phục truyền thống lâu đời. Điều này với ý nghĩa hai mặt: thần phục ko mang nghĩa là hạ mình và trong thực tế điều này còn chứng tỏ Xiêm đã cởi mở hơn trong tiếp thu các hình thức ngoại giao tiên tiến của phương Tây.
Việc khiến cho đồ vật hai của vua Chulalongkorn là thủ tiêu chế độ nô lệ. Đây là quyết định quan yếu và sở hữu ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn xã hội và bởi thế gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ nhất. Về vấn đề này, vua Chulalongkorn sở hữu ý kiến đề ra lộ trình ưa thích cho việc xoá bỏ chế độ man rợ này, nhưng ko thể đổi thay đa số trong một đêm, bởi vì điều đấy sẽ đem đến tình trạng hiểm nguy cho nô lệ[18] .
Một trong những đổi thay quan trọng nhất diễn ra cộng với sự cải cách là việc mở mang sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối có các tỉnh giấc và những vùng xa trung tâm. Dựa theo dòng hình Anh ở Ấn Độ và Miến Điện, Xiêm đã nhóm những tỉnh thành các monthon(giới/hạt) dưới sự kiểm soát của các uỷ viên hội đồng. Phần to những người này là anh em của nhà vua. Các chức phận này đã được đặt ở Luang Phrabang, Chieng Mai, Phuket và Battambang vào các năm 1879. Sau đó, chức phận này được mở mang thêm ở Nong Khai, Champassak, Nakhon Ratchasima (Khorat) và Ubon và những năm 1880.
Nói tóm lại, cải phương pháp ở Xiêm thế kỷ XIX là một giai đoạn được những ông vua từ Rama I tới Rama V thực hành 1 phương pháp chủ động, dần dần từng bước, có tính toán và mang sự chuẩn bị cẩn thận. Trong giai đoạn đó, quốc gia đóng 1 vai trò quan trọng.
Nếu so sánh với công cuộc cải phương pháp ở Xiêm, chúng ta thấy sự khác biệt căn bản giữa hai nước nằm ở chính bản thân các người đứng đầu sơn hà mà cụ thể là những nhà vua của triều Chakri ở Xiêm và triều Nguyễn ở Việt Nam. Nếu các ông vua từ Rama I đến Rama V của Xiêm thực sự là những người chủ xướng công cuộc cải cách, có nhận thức đúng đắn về tình hình khu vực và quốc tế, luôn chủ động và sở hữu kế hoạch rõ ràng cho các chủ trương cải cách, thì những ông vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Minh Mạng lại bộc lộ sự bảo thủ, trì trệ, lúng túng, bị động, thiếu nhận thức gần như về thời thế và ko kiên tâm thực hành cải phương pháp tới cùng.
Xét từ yếu tố con người trong so sánh với Xiêm, sở hữu thể thấy tư tưởng cải cách ở Việt Nam chỉ do một số siêu ít, một nhóm các quan lại, chí sĩ, do sở hữu tiếp xúc với thế giới bên ngoài, do mang nhận thức cao hơn các người cùng thời khởi thảo, đề xướng. Những bắt buộc đó trên thực tế mới chỉ là những biểu thị của một xu hướng mới, nên không được các người đứng đầu triều Nguyễn cũng như đông đảo quần chúng. # hài lòng và ủng hộ, ko tạo thành một phong trào với tính rộng khắp.
Những đại diện tiêu biểu cho xu thế cải bí quyết ở Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XIX bao gồm Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch [19] . Điểm chung nhất trong những nhà cải bí quyết Việt Nam công đoạn này là họ đều là những người xuất thân trong những gia đình khoa bảng, thừa hưởng nền giáo dục Nho học và thuộc từng lớp trên của xã hội. Nhờ với trình độ học thức và đỗ đạt trong những kỳ thi, số đông họ bởi thế đều nắm giữ một vị trí nhất định trong bộ máy quan lại của triều đình nhà Nguyễn. Ví dụ như Phạm Phú Thứ đỗ tấn sĩ năm 1843 và đã từng giữ chức Thượng thư Bộ Hộ. Bùi Viện từng được cử đi sứ hai lần sang Mỹ sở hữu mục tiêu cầu viện cứu nước nhưng ko thành công. Cho dù có vị trí như thế nào trong bộ máy đó, toàn bộ họ đều bộc lộ là những ông quan ko ham danh vọng, sở hữu máu nóng với vận mệnh của dân tộc, mong muốn giang sơn phồn thịnh bằng con đường cải cách đổi mới.
Điểm chung đồ vật hai của những nhà canh tân Việt Nam giai đoạn này là họ đều là những người trực tiếp hay gián tiếp, ít hay nhiều, có xúc tiếp sở hữu văn minh phương Tây, với thế giới bên ngoài. Mặc dù còn siêu rộng rãi hạn chế, nhưng họ là các người duyệt giao lưu sở hữu thế giới bên ngoài, mới mang các hiểu biết và sở hữu thể so sánh tình hình Việt Nam sở hữu khu vực và thế giới, ưa thích sở hữu thực tiễn khách quan.
Phần to những nhà cải cách đều thanh minh sự lo ngại về tình hình đất nước, về thái độ bàng quan, thờ ơ, chậm trễ của triều đình. Theo họ, lẽ ra bắt buộc tiến hành ngay các biện pháp canh tân, chấn hưng đất nước, cần đề ra các chủ trương đối nội và đối ngoại phù hợp, chứ không thể chần chừ, chờ đợi lâu hơn nữa [20] . xuất phát từ nhận thức về thời thế, các nhà cải phương pháp Việt Nam thế kỷ XIX đều nhằm vào những mục đích trước mắt và lâu dài cho một chương trình cải phương pháp toàn diện. Mục đích cần thiết trước mắt theo những nhà cải bí quyết là tạo ra thế cân bằng cho giang san đủ sức chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp, cứu dân tộc khỏi ách nô dịch. Không chỉ hạn chế bởi những mục đích ngắn hạn, trước mắt nhằm chống lại sự xâm lăng của Pháp, các nhà cải bí quyết còn nhìn nhận và đề ra mục đích lâu dài mà các kế hoạch này bắt buộc đạt được. Đó là đưa đất nước tăng trưởng toàn diện về tất cả mặt từ kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá và giáo dục, nhằm tiến kịp, thậm chí vượt những quốc gia trong khu vực và thế giới, bởi vì theo Đặng Huy Trứ “trong thiên hạ, ko có loại nhục nào bằng chiếc nhục ko được như người” [21] .
Trước mắt, các nhà cải bí quyết đều hợp nhất kế hoạch thực hành 1 loạt những giải pháp tức thì mà trọng điểm là cải phương pháp quân đội như học tập binh thư hài hòa với sử dụng, cung cấp vũ khí, nâng cao cường kỷ luật quân ngũ, mang chế độ ưu đãi thích đáng cho quân đội, xây dựng lực lượng dân binh hùng hậu… Về lâu dài, theo các nhà canh tân, triều đình buộc phải thực hiện công cuộc cải cách sâu sắc, toàn diện trên hầu hết những lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, ngoại giao, xã hội, văn hoá và giáo dục nhằm đưa đất nước vững mạnh hơn những nước đương thời. Mô hình mà Việt Nam cần hướng tới và xây dựng cho được theo Nguyễn Trường Tộ chính là nước Mỹ [22] .
Nói tóm lại, ở Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XIX mới chỉ xuất hiện 1 xu thế cải bí quyết trong 1 số cực kỳ ít người thuộc từng lớp nho sĩ và quan lại, chứ chưa tạo ra thành một phong trào hay làn sóng cải cách sâu rộng trong xã hội. Khác sở hữu ở Xiêm, trào lưu cải bí quyết ở Việt Nam không được triều Nguyễn ủng hộ, thậm chí với sự mâu thuẫn trong tư tưởng của nhà cải cách. Ngoài ra, một đặc điểm căn bản khác của tư tưởng cải cách ở Việt Nam là các bắt buộc cải bí quyết thiên về ảnh hưởng bên ngoài, thiếu cơ sở vật chất để hấp thụ từ bên trong, không kể đến quyền lợi của dân cày và còn với nặng tư tưởng phong kiến [23] .
b. Về phản ứng mang thế lực bên ngoài
Khi nghiên cứu về quan hệ quốc tế của Thái Lan, 1 nhà nghiên cứu Nhật Bản đi đến kết luận: Ngoại giao Thái Lan lặp đi lặp lại một mô thức: quan hệ quốc tế quanh đó Thái Lan bít tất tay – Thái Lan giữ thái độ trung lập để tìm bên đứng về phía chiếm điểm cộng để kiếm lợi to nhất có sự hy sinh nhỏ nhất [24] . Mô hình ngoại giao này được các nhà nghiên cứu quốc tế gọi là ngoại giao lựa chọn. Đối mang Thái Lan, sự lựa sắm xảy ra lúc quan hệ quốc tế căng thẳng tác động trực tiếp tới thuận tiện và song song tồn tại phổ biến lực lượng thù địch với nước này. Trong trường hợp đó, Thái Lan thường bắt tay sở hữu cả hai phía đối địch, rồi phê duyệt tương quan lực lượng của hai bên, chọn phía sở hữu lợi cho nước mình để hợp tác. Cũng mang khi Thái Lan bắt tay mang một phía trong những bên cừu địch nhau, rồi lại nhích lại sắp có bên kia để khiên chế bên mà mình đang bắt tay để kiếm lợi cho nước mình. Mục đích của sự lựa mua này là kiếm lợi to nhất với sự hy sinh nhỏ nhất. Ngoại giao Thái Lan bởi vậy là ngoại giao thực dụng chủ nghĩa và mềm dẻo.
Tình hình nửa cuối thế kỷ XIX đã đặt vương quốc Xiêm trước các thách thức mới. Trước sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương Tây, khu vực Đông Nam Á vươn lên là nơi diễn ra cuộc đấu giành giật thuộc địa của hai nước Anh và Pháp. Vào khoảng năm 1800, Anh đã hoàn toàn chiếm được khu vực kế bên Penang trên bán đảo Mã Lai. Đến năm 1886, Anh chiếm được tất cả Miến Điện. Như vậy, Anh đã tiến sát đến vùng biên thuỳ phía nam và phía tây Thái Lan. Mặt khác, năm 1859, Pháp chiếm được Nam Việt Nam, biến vùng này thành thuộc địa. Đến năm 1863, Pháp đã chiếm được Campuchia, biến nước này thành đất bảo hộ. Công cuộc chinh phạt của Pháp ở Đông Dương đã hoàn thành vào năm 1885. Như vậy, chủ quyền của Thái Lan ở biên thuỳ phía đông bị ăn hiếp dọa nghiêm trọng.
Từ năm 1851, lúc sự doạ dọa của hai cường quốc đó khởi đầu tăng lên, thì Mongkut (1851-1868) lên ngôi vua. Mongkut tin rằng nếu không cộng tác với những nước Tây Âu thì Thái Lan sẽ bị chinh phục. Niềm tin của Mongkut được khẳng định bởi việc Trung Quốc bị thất bại trong trận đấu tranh thuốc phiện năm 1842. Ông cho rằng một nước mà Thái Lan đã kính phục trong nhiều thế kỷ về sức mạnh và uy tín như Trung Quốc đã ko đương đầu nổi trước sức ép của Tây Âu thì Thái Lan cũng không thể duy trì được nền độc lập của mình. Vì thế, năm 1855, vua Mongkut đã quyết định ký hiệp ước thông thương hữu nghị Thái-Anh có thống đốc Hongkong khi đấy là Huân tước [Sir John] Bowring. Hiệp ước này đã đi vào lịch sử quan hệ ngoại thương của Xiêm có tên gọi là Hiệp ước Bowring. Theo quy định của các điều khoản ký kết, Xiêm hài lòng quyền lãnh sự tài phán, thủ tiêu sự độc quyền của cả tôn thất và tư nhân về hàng hoá, thương mại và quá cảnh và thiết lập 1 mức thuế “dũng cảm” là 3% đối mang hàng du nhập và 5% mang hàng xuất khẩu[25] . Ngay cả thuế đất đối có các chủ người Anh cũng được định mang giá thấp, ngăn không cho chính quyền nâng giá đất đối với chính người dân Thái. Sự cấm đoán xuất khẩu gạo trước đây cũng bị xoá bỏ. Chính phủ chỉ giữ lại những quy định cũ đối với những nhượng địa ảnh hưởng tới xuất du nhập ma tuý là độc quyền của nhà nước.
Hiệp ước này đã mở đường cho Thái Lan ký những hiệp ước thông thương khác có 1 loạt cường quốc sau đó, cho cần nó được coi là mốc khởi đầu cho giai đoạn mở cửa của Thái Lan. Tuy nhiên, đây là hiệp ước bất bình đẳng thừa nhận đặc quyền kinh tế và quyền lãnh sự tài phán của người Anh, cho buộc phải nguy cơ Thái Lan phát triển thành thực dân địa của Anh luôn rình rập nước này.
Sau khi ký hiệp ước sở hữu Anh, Thái Lan lại quay sang thân thiện với Pháp, là lực lượng thù địch của Anh để kìm giữ áp lực về chính trị và kinh tế ngày một tăng của Anh. Do buộc được hai thần thế này cần ứng phó có nhau, Thái Lan không trở thành thực dân địa và có thể duy trì được độc lập. Như vậy là đồng thời sở hữu việc mở cửa, ngoại giao lựa tậu của Thái Lan đã thu được kết quả lớn. Sự độc lập của Xiêm trong giai đoạn này cốt tử nhờ vào sự thù địch, cạnh tranh của Anh và Pháp. Bên nào cũng lo ngại sự xâm lược của bên kia hoặc là sự vượt trội của đối phương. Bangkok đã biết tận dụng tình thế này và tạo ra điểm tựa cho sự cân bằng quyền lực. Điều cốt tử mà Anh và Pháp mang thể hợp nhất được là bảo đảm sự độc lập của đồng bằng sông Chao Phraya năm 1896.
Điều đó mang tức thị Xiêm khó với thể kiểm soát được bán đảo Mã Lai, những tỉnh đông nam giáp giới với Campuchia và mọi vùng đông bắc Thái Lan hiện nay. Bangkok đã với thể giữ được đa số cương vực này chỉ vì hài hòa được những chi tiết may mắn, tiên tiến hoá. đúng khi và khả năng ngoại giao tài tình.
Trước mối ăn hiếp dọa về chủ quyền từ hai cường quốc phương Tây vào các năm cuối của thế kỷ XIX, Xiêm đã buộc buộc phải ký hoà ước năm 1907 đồng ý cắt 1 số vùng cương vực ở Lào và Campuchia và 1 khoản tiền to cho Pháp. Cái giá bắt buộc trả cho Anh cũng đắt tương tự, khi Xiêm buộc phải trả lại 4 tỉnh giấc Kedah, Perlis, Kelantan và Trengganu cho Anh. Những hiệp ước này đã phần nào làm cho giảm áp lực của các cường quốc đối mang chủ quyền của Xiêm và bảo đảm sự an toàn biên giới bờ cõi của 1 quốc gia được quốc tế thừa nhận.
Thái độ của Việt Nam đối với phương Tây ngược lại hoàn toàn các gì đã xảy ra ở Xiêm. Ngay từ năm 1847, khi thực dân Pháp lần đầu tiên nổ súng vào cửa biển Đà Nẵng, đánh chìm năm dòng tàu của Việt Nam, đã cho thấy thái độ trịch thượng của những kẻ đi xâm lược và những thách thức mới mà Việt Nam bắt buộc đương đầu. Âm mưu xâm chiếm Việt Nam của Pháp đã rõ ràng, dù rằng mãi đến năm 1858, Pháp mới chính thức tiến hành cuộc chinh phạt của họ 11 năm là khoảng thời gian không ngắn giữa hai lần tấn công, của thực dân Pháp, nhưng điều sửng sốt là triều đình nhà Nguyễn ko hề sở hữu sự chuẩn bị hoặc các đối sách cụ thể nào nhằm ngăn chặn âm mưu đó. Vì thực dân Pháp nhận thấy sự lúng túng, lo ngại, yếu kém, mâu thuẫn trong nội bộ triều đình, nên đã quyết định hành động 1 cách mạnh mẽ và dứt khoát hơn. Sau lúc chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, mà ko có sự phản ứng đáng kể nào từ phía triều đình nhà Nguyễn, thực dân Pháp đã dần dần mở mang sự chinh phạt ra các khu vực lân cận, xung quanh. Đứng trước nguy cơ mất nước và hành động xâm phạm trắng trợn chủ quyền của thực dân Pháp, ngay từ đầu, vua Gia Long [?] đã cảnh giác hơn trong quan hệ sở hữu Pháp, thực thi chính sách đóng cửa, bế quan toả cảng, hạn chế buôn bán, tiếp xúc với nước ngoài. Hành động này biểu thị năng lực tránh của triều đình trong việc phân tách tình hình thế giới và khu vực, khả năng suy đoán và kiểm tra quân thù cũng như thái độ xử sự bất cập trong quan hệ quốc tế.
Kế tục sự nghiệp của Gia Long, mặc dầu là được coi là ông vua có trí não hơn người, nhưng Minh Mạng vẫn tiếp tục đường lối đối ngoại đóng cửa mà cha ông để lại. Ngoài một số cải cách nhằm củng cố chính quyền phong kiến, Minh Mạng đã không sở hữu một sự đổi thay nào trong chính sách đối mang phương Tây, mặc dù thời thế đã thay đổi. Không các ko sử dụng, ông còn mua bí quyết vô hiệu hoá các người Pháp đã từng khiến cho việc trong triều dưới thời Gia Long. Trước số lượng tàu buôn nước ko kể kéo tới xin mở cửa thông thương ngày một đông, Minh Mạng đã cương quyết cự tuyệt chỉ vì sợ họ can thiệp vào công tác của triều đình. Sự kiện Trung Quốc bị thất bại trong chiến tranh Nha phiến với người Anh và các nước phương Tây đã làm cho nhà vua càng thêm lo sợ và xa lánh bọn người “man di” này. Mặc dù vào năm 1840, Minh Mạng với cử 1 số phái bộ ra nước ngoài, nhưng đường lối đối ngoại của ông thì không hề thay đổi. Trên thực tế, những phái đoàn này được cử đi ko phải nhằm mục tiêu thiết lập quan hệ ngoại giao, mở mang giao thương, mà cốt yếu để tậu hiểu khả năng và kế hoạch của người phương Tây mà thôi. Đến thời Thiệu Trị và Tự Đức, chính sách đối ngoại của triều Nguyễn vẫn không hề đổi thay theo hướng cởi mở, mà thậm chí còn mang chiều cứng nhắc hơn.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng việc đặt quan hệ giao dịch, thương nghiệp chính thức với những nước phương Tây có thể sẽ dẫn tới sự suy đồi về đạo đức, khiến cho xói mòn các giá trị của tư tưởng Nho giáo, thúc đẩy trực tiếp đến uy lực và quyền lực, sự tồn tại của triều đình, nên những ông vua triều Nguyễn đã giãi tỏ thái độ cự tuyệt có xu hướng này. Ngoài ra, các hoạt động trắng trợn của những giáo sĩ thừa sai như xâm nhập phi pháp lãnh thổ, hỗ trợ một số hoạt động chống đối triều đình của 1 số lực lượng xã hội trong công đoạn truyền bá Thiên chúa giáo, nên triều đình nhà Nguyễn càng thận trọng, e dè và cảnh giác trong quan hệ mang phương Tây. Thậm chí, vua Tự Đức còn ban hành các chỉ dụ cấm đạo, không cho những giáo sĩ hoạt động, gây ra sự căng thẳng trong quan hệ Việt-Pháp, tạo thành mẫu cớ để Pháp đẩy nhanh quá trình can thiệp vào Việt Nam.
Nói tóm lại, phản ứng của triều Nguyễn trước sự bành trướng về thương nghiệp và quân sự của Pháp và những nước phương Tây là thụ động, lo sợ, nghi ngờ, thiếu tự tín và bất cập. Thay vì 1 mặt phải chọn hiểu, tiếp cận, nghiên cứu đối phương, mặt khác bắt buộc phát huy sức mạnh của bộ máy, động viên, tập hợp lực lượng, nhà Nguyễn đã sắm phương pháp né tránh, hạn chế giao tiếp, thực hành chủ trương bế quan toả cảng.
IV. Kết luận
Nói tóm lại, so sánh căn nguyên thành công của công cuộc cải phương pháp ở Xiêm và nguyên do thất bại của xu thế cách tân sơn hà ở Việt Nam thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX, chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau đây.
Thứ nhất, công cuộc cải bí quyết ở Xiêm và các yêu cầu cải cách đất nước ở Việt Nam tuy diễn ra trong cùng một thời kỳ, khi mà chủ nghĩa thực dân phương Tây đang với nhu cầu và âm mưu mở rộng ảnh hưởng, tìm kiếm thị trường phục vụ cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng ở vào các thời khắc khác nhau. Nếu như ở Xiêm, nhà nước trung ương tập quyền đã được xây dựng và củng cố từ giữa thế kỷ XVIII thì công đoạn này ở Việt Nam chỉ mới hoàn thành vào đầu thế kỷ XIX.
Thứ hai, những cơ sở chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, giáo dục của vương quốc Xiêm so với Việt Nam vào thế kỷ XIX với rộng rãi thuận lợi hơn cho việc hình thành, lớn mạnh và thực hành những chủ trương cải cách. Mặc dù cả Xiêm và Việt Nam đều là chế độ phong kiến trung ương tập quyền, nhưng so có Việt Nam, xã hội Xiêm là một xã hội thông nhất, cởi mở hơn. Tuy nền kinh tế của cả hai nước đều lấy canh tác nông nghiệp khiến cho cơ sở phát triển, nhưng chi tiết hàng hoá, thị trường ở Xiêm tăng trưởng mạnh hơn rộng rãi so mang Việt Nam. Nói tóm lại, ở Xiêm, những tiền đề cho xu hướng cải bí quyết được định hình và vững mạnh toàn bộ hơn so với ở Việt Nam.
Thứ ba, tầng lớp lãnh đạo tối cao, mà đại diện là các nhà vua Thái Lan và các quan chức cao cấp trong bộ máy hành chính, vừa là các người khởi xướng đưa ra ý tưởng, vừa là những người với quyền lực để thực thi những chủ trương đó. Tầng lớp này được đào tạo, tẩm bổ một cách chủ động, phát huy được tính kế thừa, tiếp diễn, tạo thành 1 lực lượng và sức mạnh chủ đạo, vượt trội, sở hữu khả năng lãnh đạo cải bí quyết đi đến thắng lợi, trong khi ở Việt Nam, lực lượng cải phương pháp ít về số lượng, kém về chất lượng.
Thứ tư, trong quan hệ quốc tế, từng lớp lãnh đạo Xiêm với nhận thức đúng đắn về tình hình khu vực và quốc tế, biết tận dụng 1 phương pháp triệt để thời cơ, biết khẩn hoang mâu thuẫn giữa những đối thủ, biết hy sinh những thuận tiện trước mắt, chuyên dụng cho cho những mục tiêu lâu dài. Trên cơ sở đó, họ đã đề ra đường lối đối ngoại phù hợp, cởi mở, thực dụng./.
Nhận xét
Đăng nhận xét